ví điện tử

Ví điện tử

Làm lại thí nghiệm này nhưng thay đổi nguồn một chiều trở thành nguồn xoay chiều 6V như Hình 35.3. Hiện tượng sẽ xảy ra với thanh nam châm có điều gì khác so với trường hợp sử dụng nguồn một chiều? https://innhanhredep.info/ Giải thích tại sao?

Giống như dòng điện một chiều, dòng điện xoay chiều cũng có các tác dụng nhiệt, tác dụng phát sáng, tác dụng từ. Một điểm khác với dòng điện một chiều là đối với dòng điện xoay chiều, khi dòng điện đổi chiều thì lực từ tác dụng lên nam châm cũng đổi chiều.

Ta có thể thấy điện xoay chiều ở khắp mọi nơi từ gia đình, nhà máy, công sở. Sở dĩ AC phổ biến là do nó có thể truyền đi khoảng cách xa tương đối dễ dàng. Ở điện áp cao (trên 110kV), dòng điện sẽ mất ít năng lượng hơn trong việc truyền tải điện. Điện áp cao hơn nghĩa là dòng điện thấp hơn và dòng điện càng thấp thì sẽ ít sinh nhiệt trong đường dây do có điện trở. Dòng điện AC có thể được chuyển đổi sang điện áp cao dễ dàng bằng các máy biến áp.

Sau khi công tắc K đóng thì bên trong cuộn dây dẫn B sẽ có xuất hiện dòng điện cảm ứng. Bởi vì dòng điện xoay chiều chạy vào cuộn dây dẫn của thanh nam châm điện và đã tạo ra một từ trường biến đổi. Các đường sức từ của từ trường ở trên xuyên qua tiết diện S của cuộn dây B biến đổi, vậy nên cuộn dây B có xuất hiện dòng điện cảm ứng.

Kính hiển vi điện tử quét

Kỹ thuật này cho phép bạn nhìn thấy bề mặt của hầu hết mọi mẫu, từ kim loại công nghiệp, mẫu địa chất đến các mẫu sinh học như bào tử, côn trùng và tế bào. Mặc dù SEM không thể nhìn thấy các đặc điểm ở cùng mức độ chi tiết như TEM, nhưng nó nhanh hơn nhiều, ít hạn chế hơn và đôi khi có thể được thực hiện với việc chuẩn bị mẫu hạn chế hoặc không cần chuẩn bị mẫu.

Kính hiển vi điện tử truyền qua quét (tiếng Anh: Scanning transmission electron microscopy, viết tắt là STEM) là một dạng kính hiển vi điện tử truyền qua mà ở đó, chùm tia điện tử được hội tụ thành một chùm tia rất hẹp, đồng thời quét trên bề mặt mẫu khi truyền qua mẫu. STEM đang là loại kính hiển vi điện tử truyền qua cho độ phân giải tốt nhất tới cấp độ nguyên tử và nhiều phép phân tích hữu ích đi kèm.

Việc phát các chùm điện tử trong SEM cũng giống như việc tạo ra chùm điện tử trong kính hiển vi điện tử truyền qua, tức là điện tử được phát ra từ súng phóng điện tử (có thể là phát xạ nhiệt, hay phát xạ trường…), sau đó được tăng tốc. Tuy nhiên, thế tăng tốc của SEM thường chỉ từ 10 kV đến 50 kV vì sự hạn chế của thấu kính từ, việc hội tụ các chùm điện tử có bước sóng quá nhỏ vào một điểm kích thước nhỏ sẽ rất khó khăn. Điện tử được phát ra, tăng tốc và hội tụ thành một chùm điện tử hẹp (cỡ vài trăm Angstrong đến vài nanomet) nhờ hệ thống thấu kính từ, sau đó quét trên bề mặt mẫu nhờ các cuộn quét tĩnh điện. Độ phân giải của SEM được xác định từ kích thước chùm điện tử hội tụ, mà kích thước của chùm điện tử này bị hạn chế bởi quang sai, chính vì thế mà SEM không thể đạt được độ phân giải tốt như TEM. Ngoài ra, độ phân giải của SEM còn phụ thuộc vào tương tác giữa vật liệu tại bề mặt mẫu vật và điện tử. Khi điện tử tương tác với bề mặt mẫu vật, sẽ có các bức xạ phát ra, sự tạo ảnh trong SEM và các phép phân tích được thực hiện thông qua việc phân tích các bức xạ này. Các bức xạ chủ yếu gồm:

tại sao nguyên tử mang điện tích âm hoặc dương

Kỹ thuật này cho phép bạn nhìn thấy bề mặt của hầu hết mọi mẫu, từ kim loại công nghiệp, mẫu địa chất đến các mẫu sinh học như bào tử, côn trùng và tế bào. Mặc dù SEM không thể nhìn thấy các đặc điểm ở cùng mức độ chi tiết như TEM, nhưng nó nhanh hơn nhiều, ít hạn chế hơn và đôi khi có thể được thực hiện với việc chuẩn bị mẫu hạn chế hoặc không cần chuẩn bị mẫu.

Kính hiển vi điện tử truyền qua quét (tiếng Anh: Scanning transmission electron microscopy, viết tắt là STEM) là một dạng kính hiển vi điện tử truyền qua mà ở đó, chùm tia điện tử được hội tụ thành một chùm tia rất hẹp, đồng thời quét trên bề mặt mẫu khi truyền qua mẫu. STEM đang là loại kính hiển vi điện tử truyền qua cho độ phân giải tốt nhất tới cấp độ nguyên tử và nhiều phép phân tích hữu ích đi kèm.

Việc phát các chùm điện tử trong SEM cũng giống như việc tạo ra chùm điện tử trong kính hiển vi điện tử truyền qua, tức là điện tử được phát ra từ súng phóng điện tử (có thể là phát xạ nhiệt, hay phát xạ trường…), sau đó được tăng tốc. Tuy nhiên, thế tăng tốc của SEM thường chỉ từ 10 kV đến 50 kV vì sự hạn chế của thấu kính từ, việc hội tụ các chùm điện tử có bước sóng quá nhỏ vào một điểm kích thước nhỏ sẽ rất khó khăn. Điện tử được phát ra, tăng tốc và hội tụ thành một chùm điện tử hẹp (cỡ vài trăm Angstrong đến vài nanomet) nhờ hệ thống thấu kính từ, sau đó quét trên bề mặt mẫu nhờ các cuộn quét tĩnh điện. Độ phân giải của SEM được xác định từ kích thước chùm điện tử hội tụ, mà kích thước của chùm điện tử này bị hạn chế bởi quang sai, chính vì thế mà SEM không thể đạt được độ phân giải tốt như TEM. Ngoài ra, độ phân giải của SEM còn phụ thuộc vào tương tác giữa vật liệu tại bề mặt mẫu vật và điện tử. Khi điện tử tương tác với bề mặt mẫu vật, sẽ có các bức xạ phát ra, sự tạo ảnh trong SEM và các phép phân tích được thực hiện thông qua việc phân tích các bức xạ này. Các bức xạ chủ yếu gồm:

Tại sao nguyên tử mang điện tích âm hoặc dương

Mỗi đồng vị phóng xạ có chu kỳ phân rã đặc trưng — hay nửa thời gian sống — xác định bởi lượng thời gian cần thiết cho một nửa mẫu hạt phân rã. Đây là tiến trình phân rã hàm mũ và giảm dần lượng đồng vị còn lại một nửa sau mỗi chu kỳ phân rã. Do đó sau chu kỳ phân rã thứ hai số hạt đồng vị còn lại chỉ là 25% so với ban đầu, và cứ như thế.

Năm 1938, nhà hóa học người Đức Otto Hahn, học trò của Rutherford, đã hướng chùm neutron vào các nguyên tử urani nhằm mục đích tạo ra các nguyên tố siêu urani. Thay vào đó ông lại nhận được từ kết quả thí nghiệm hóa học là sản phẩm bari. Một năm sau, Lise Meitner và người cháu trai của Otto Hahn là Otto Frisch xác nhận kết quả Hahn thu được là thực nghiệm đầu tiên về sự phân hạch hạt nhân. Năm 1944, Otto Hahn nhận giải Nobel Hóa học. Mặc dù Hahn đã nỗ lực kêu gọi Ủy ban Nobel trao giải cho Meitner và Frisch nhưng ông đã không thành công.

Năm 1869, dựa trên các khám phá trước đó của những nhà khoa học như Lavoisier, nhà hóa học người Nga Dmitri Mendeleev lần đầu tiên công bố bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học. Trên bảng này thể hiện tính chất hóa học một cách tuần hoàn giữa các nguyên tố, ông phát hiện ra tính lặp lại tuần hoàn của các nguyên tố khi sắp xếp chúng theo nguyên tử số.

Ví điện tử là gì

Nếu hỏi lợi ích của ví điện tử là gì thì câu trả lời được nhiều người lựa chọn nhất chắn hẳn là sự tiện lợi. Với ví điện tử được tích hợp trên điện thoại, bạn chỉ cần quét thẻ hoặc chạm vào các thiết bị thanh toán để thanh toán mọi giao dịch. Điều này giúp quá trình thanh toán diễn ra nhanh chóng.

Một ví điện tử bao gồm phần mềm và thiết bị thông tin. Phần mềm cung cấp chế độ bảo mật và mã hóa cho thông tin cá nhân và giao dịch thực tế. Thông thường, khách hàng tự giữ và bảo quản ví điện tử và hoàn toàn tương thích với các trang web thương mại điện tử. Ví điện tử server, cũng được gọi là ví mỏng, là loại ví mà một tổ chức tạo ra cho khách hàng được lưu trữ trên server của họ. Ví điện tử server đang được các nhà bán lẻ ưa chuộng vì tính bảo mật, hiệu quả, có thể thêm tiện ích cho người dùng, làm tăng sự thích thú khi mua bán. Thiết bị thông tin thực chất là cơ sở dữ liệu thông tin do người dùng tự thêm vào. Các thông tin này bao gồm: địa chỉ chuyển hàng, địa chỉ hóa đơn, cách thức thanh toán (bao gồm số thẻ tín dụng, ngày hết hạn, và số bảo mật), và các thông tin khác.

Ngân hàng số (digital banking) là hoạt động ngân hàng trên nền tảng kỹ thuật số, cung cấp các dịch vụ tài chính qua các ứng dụng trên điện thoại di động hoặc trang web. Các hoạt động giao dịch và hỗ trợ khách hàng được thực hiện thông qua các công nghệ như trò chuyện trực tuyến, trợ lý ảo và hệ thống tự động.

Tính bảo mật cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm, vì thế hầu hết các bên cung cấp ví điện tử đều cố gắng tạo sự bảo mật tốt nhất cho khách hàng. Tuy nhiên, việc bị đánh cắp thông tin vẫn là điều khó tránh khỏi. Ví điện tử chưa xây dựng được hệ thống cửa hàng, đại lý kinh doanh để có thể linh động cung cấp cho những người có nhu cầu sử dụng.

Ví điện tử tiện lợi, an toàn và nhanh chóng, giúp người dùng không cần phải mang theo tiền mặt hoặc thẻ tín dụng khi đi lại. Các ví điện tử phổ biến hiện nay bao gồm: MoMo, ZaloPay, ViettelPay, AirPay, GrabPay, Payoo, VTC Pay, Moca, 123Pay…

Leave a Reply